Luận Về Tôn Ngô Binh Pháp
Trung Quốc cổ thời có nhiều nhà quân sự tài ba và nhiều bộ binh pháp nổi
tiếng như: Thái Công Binh Pháp, Lục Thao Binh Pháp, Tư Mã Binh Pháp,
Tôn Tử Binh Pháp, Ngô Tử Binh Pháp. Nhưng được lưu truyền mạnh mẽ nhất
là hai bộ binh pháp của Tôn Võ Tử và Ngô Khởi và đời sau hay nhập hai bộ
nầy lại làm một và gọi tắt là Tôn Ngô Binh Pháp, có thể được xem là
tinh hoa của binh pháp Trung Quốc.
Trong lãnh vực tư, các nhà lãnh đạo của các công ty Tây Phương ngày
nay thường hay áp dụng binh pháp nầy vào trong các cuộc cạnh tranh trên
thương trường. Sách “The Art of War” dịch ra từ Binh Thư Tôn Tử thường
được các sinh viên học về quản tri kinh doanh ở các trường đại học
nghiên cứu.
Tôn Tử Binh Pháp khác với Ngô Tử Binh Pháp ở chổ ông Tôn Tử xem vấn
đề binh bị như là một vấn đề quân sự thuần túy, tách rời ra hẳn với
những vấn đề chính trị. Trong cuộc sống cũng vậy, ông không dính dự vào
những vấn đề chính trị của nhà vua. Nó tương tự như quân đội của các thể
chế dân chủ hiện thời. Ngược lại Ngô Tử gắn chặt vấn đề binh bị vào vấn
đề chính trị. Do đó hơi giống như quyển “Quân Vương” của Machiavelli ở
Tây Phương nhưng nghiêng nhiều hơn về mặt quân sự.
Trung Quốc trong ba năm qua (2009-2011) đã theo đuổi một chính sách
lấn lướt trên thế giới, nhất là ở Đông Nam Á và Biển Đông. Chính sách
này đã gặp thất bại vì làm các nước hoảng sợ, nghiêng về phía Hoa Kỳ.
Trong khi đó Hoa Kỳ nhận thấy sự phát triển của họ trong Thế Kỷ 21 là ở
Châu Á-Thái Bình Dương cho nên nhân cơ hội này đã nhanh chóng bắt lấy để
điều chỉnh chính sách đối ngoại. TQ nhận thấy bị thất bại nên cuối năm
2011 đã điều chỉnh chính sách, chuyển từ quyền lực cứng sang quyền lực
mềm và bắt đầu quan tâm sử dụng trở lại Tôn Ngô Binh Pháp.
Chúng ta thử lấy một vài nguyên tắc của Tôn Ngô Binh Pháp để nghiên
cứu xem nó có giúp gì cho chúng ta không trong cuộc tranh đấu cho tự do
dân chủ với đảng CSVN. Đọc qua là một điều dễ làm, nhưng ứng dụng hay
quyền biến được gì cho kim thời là một điều khó hơn. Ngày nay, tuy môi
trường và kỹ thuật chiến đấu đã khác xưa nhiều, nhưng về bản chất, đặc
tính, sự suy nghĩ, sự tác động lẫn nhau của nhân sinh thì không thể vượt
qua được xã hội loài người. Do đó, nó vẫn còn có những vấn đề bất biến
về nguyên tắc.
Tôn Tử nhấn mạnh đến vấn đề chiến lược, đánh và thắng trận bằng đầu
óc, việc đánh bằng quân binh và vũ khí chỉ là giải pháp cuối cùng,
khi không còn cách nào khác. Ông chú trọng đến tình hình thực tại, luôn
luôn chuyển biến của chiến trường và có một phong thái chừng mực, khác
hẳn với nhà quân sự nổi tiếng Clausewitz của nước Phổ (Prussia) ở Tây
Phương chủ trương tuyệt đối, thuần lý, toàn diện trong chiến tranh,
không bị giới hạn tình cảm.
Tôn Tử cho rằng nghệ thuật tột đỉnh của chiến tranh là chế ngự được
kẻ thù mà không cần phải đánh, chiếm được thành lũy mà giữ được sự
nguyên vẹn, lật đổ được chính quyền mà không gây đổ máu. Ông nhấn mạnh
đến việc khai thác những yếu tố bất ngờ và dùng lối tấn công gián tiếp.
Ông nhắc nhở nhà vua và các nhà chỉ huy quân đội là không nên chỉ cậy
dựa vào sức mạnh quân sự, vì ông không quan niệm chiến tranh trong cái
nghĩa chém giết và tàn phá, mà là chiếm được một cách trọn ven, không
sức mẽ, hoặc gần như không bị sức mẽ, là đối tượng chính của chiến lược.
Vì cho rằng chiến thắng không phải là mục đích tối hậu của chiến
tranh, do đó ông không chấp nhận chiến tranh trường kỳ, vì cho rằng
không nước nào có lợi cả cho một cuộc chiến như vậy. Chiến lược gia phải
đọc được đầu óc và sự tính toán của kẻ thù, biết được và chuẩn bị kỹ
càng trong việc thấu hiểu phía địch và biết rõ chính mình, thì sự chiến
thắng được coi như biết trước.
Muốn chiến thắng thì quân tướng phải sảng khoái, đoàn kết, có tinh
thần chiến đấu cao độ, kế đến tìm cách làm nhục ý chí và làm hoang mang
quân địch rồi tấn công. Chính sách hay nhất là tấn công những kế hoạch
của kẻ thù, thứ đến là làm sụp đổ những liên minh quân sự của họ.
Nếu có một chân lý trong chiến tranh thì cái chân lý đó là “sự luôn luôn huyền biến“.
Vai trò của một viên tướng là tạo ra những biến đổi và xoay trở những
biến đổi nầy để giữ lợi thế. Khi thấy cơ hội xuất hiện thì phải hành
động thật nhanh và thật dứt khoát.
Còn Ngô Tử coi việc binh bị là một phương tiện của nhà vua để xây
dựng đế nghiệp. Do đó, lúc sinh thời, ông đến giúp nước nào thì nước đó
trở thành hùng mạnh. Đó là một ưu điểm của ông trong việc phục vụ chế độ
chính trị quân chủ chuyên chính, nhưng đó cũng là tử điểm của ông vào
lúc cuối đời.
Ông cho rằng muốn thắng trận thì trước hết đất nước phải thực sự hòa
hợp và đoàn kết. Nếu trong nước không hòa hợp thì đừng ra quân, trong
quân không hòa hợp thì đừng bày trận, trong trận không hòa hợp thì đừng
tiến đánh, khi đánh không hòa hợp thì không thể thắng được
.
Việc chiến thắng địch thì dễ hơn là việc giữ được đất nước địch, do đó ông cho rằng việc chỉ lo háo thắng là một điều tai họa “ai
thắng năm lần thì gặp tai họa, thắng bốn lần thì chịu tệ hại, thắng ba
lần thì làm bá, thắng hai lần thì làm vương, thắng một lần thì làm đế.”
Quan niệm nầy tương tợ như quan niệm của ông Winston Churchill trong Đệ
Nhị Thế Chiến là có một kế hoạch (plan) rõ ràng để chiến thắng mặc dù
thực tế chiến trường không xảy ra như dự liệu và cần phải luôn luôn điều
chỉnh, hay “thua không có nghĩa là thất bại, bỏ cuộc mới là thất bại.“
Ông chia đối thủ ra làm năm loại và tìm hiểu đối thủ rơi vào hạng
loại nào để đánh cho thích hợp. Năm loại đó là: (1) nghĩa binh hay binh
cứu nước; (2) cường binh hay binh đông và mạnh; (3) cương binh hay binh
được dấy lên vì do sự giận dữ; (4) bạo binh hay binh hung dữ, tham lợi;
(5) nghịch binh hay đem binh đi đánh bên ngoài để khỏa lấp những chuyện
rối rắm bên trong.
Ông luôn nhấn mạnh đến vấn đề tổ chức và kỹ luật để đào tạo đội quân
tinh nhuệ, nhưng khi đi đánh thì phải làm sao cho nhân dân trông thấy là
bên ta phải lẽ, bên địch trái lẽ. Trước khi đánh phải điều nghiên phong
tục, tánh tình của người dân trong nước địch, tùy theo văn hóa và tánh
khí của nước địch thù mà cách đánh khác nhau.
Trong tám trường hợp mà ông cho là phải đánh ngay thì có sáu trường
hợp phát xuất từ địch tình như (1) địch bị kẹt lâu ngày ở một địa hình
bất lợi, (2) cạn lương không có tiếp vận, (3) quân ít không có đồng
minh, (4) đường xa mệt mõi, (5) lãnh đạo kém lòng quân không vững, (6)
địch ở địa thế bất lợi mà trận địa chưa bày. Còn hai trường hợp do thời
tiết như (1) địch di binh khi trời gió lạnh, (2) vượt đường xa trong
những ngày nóng bức.
Nghiên cứu địch tình, ông quan tâm xem họ có thiếu tổ chức? thiếu
đồng minh? thiếu lãnh đạo? thiếu phòng thủ? Và khi tấn công thì ông tấn
công ở những lúc và những nơi mà họ sơ xuất. Ông luôn luôn tìm cách đẩy
địch vào cái lề lối, chiều hướng, la bàn suy nghĩ của họ và không cho họ
rãnh tay để suy nghĩ và biết cách dụng binh của ông “ta bày trận
tròn thì phải buộc chúng đổi thành trận vuông, binh ta ngồi ta buộc
chúng đứng dậy, binh ta đi ta buộc chúng đứng lại, binh ta qua trái ta
buộc chúng qua phải, binh ta quay ra trước ta buộc chúng quay ra
sau, binh ta phân tán ta buộc chúng tụ họp, binh ta kết hợp ta buộc
chúng giải tán.”
Ông cho rằng người tướng giỏi cần có năm đức tính (1) quản lý dễ dàng
số đông, (2) ở tư thế luôn luôn chuẩn bị, (3) có tinh thần quả cảm, (4)
luôn có tinh thần kỹ luật cao độ dù thắng hay thua, (5) rõ ràng và
cương quyết hoàn thành trọng trách.
Nắm vững địa thế sẽ làm cho việc dụng binh được dễ dàng và không bị tốn phí “dùng quân đông cần đất dễ, dùng quân ít cần đất hiểm.” Trong
trường hợp địch đông, ta ít thì ở đất dễ ta tránh địch, ở đất kẹt ta
đón chúng. Ông cho rằng ở đất kẹt có thể lấy một đánh mười, ở đất hiểm
có thể lấy mười đánh trăm, ở đất khó có thể lấy ngàn đánh mười ngàn.
Chúng ta thường nghe nói “tam thập lục kế” hay 36 mưu kế hay
trong chiến đấu, 36 kế nầy đều được rút ra hầu hết từ Tôn Ngô Binh Pháp
như (1) kế “che mắt thế gian” được rút ra từ quan niệm của Tôn Tử là cái giỏi trong việc hành binh là làm cho nó vô hình, (2) kế “vây Ngụy cứu Triệu” được rút ra từ Tôn Ngô Binh Pháp, áp dụng cho những trường hợp giải vây, (3) kế “mượn tay người khác” hay quan niệm “kẻ thù của kẻ thù của chúng ta là bạn ta” dựa từ chuyện Hàn Phi Tử và Tam Quốc Chí mà trong đó Khổng Minh nhờ tay Tôn Quyền để đánh Tào Tháo, (4) kế “lấy khỏe đánh mệt” rút từ Tôn Tử về việc lấy kẻ gần đánh kẻ ở xa, lấy kẻ nghĩ ngơi đánh người mõi mệt, lấy người no đánh ké đói, (5) kế “thừa gió bẻ măng” dựa vào chiến thuật giành lấy trong rối loạn của Tôn Tử, (6) kế “giương đông kích tây” hay diện và điểm, làm cho địch tập trung sức mạnh vào điểm A để đánh điểm B, (7) kế “có ít xích to” để tuyên truyền dụ hoặc, (8) kế “ngầm vượt Trần Thương” dựa vào chuyện Hán Sở Tranh Hùng, chủ yếu là đánh lạc hướng, (9) kế “cách sông ngắm lửa”
dựa vào Tôn Tử về việc lấy trị để đối phó với loạn, lấy tỉnh để đối phó
với động, ngồi bên sông xem nhà cháy mà đợi cơ hội, (10) kế “ngọt mật chết ruồi” hay dùng lời lẽ ngon ngọt dể đưa địch vào cạm bẩy, (11) kế “mận chết thay đào” hay Lê Lai cứu chúa, (12) kế “đánh bùn sang ao” hay đánh lạc sự chú ý, (13) kế “thả bóng thăm dò” dựa vào Tôn Tử dùng biến thế để quan sát phản ứng của đối phương, (14) kế “hồn Trương Ba da hàng thịt” hay rượu cũ bình mới, (15) kế “điệu hổ ly sơn” hay dụ con cọp ra khỏi núi, dựa vào Binh Thư Tôn Tử, (16) kế “muốn bắt thì phải thả” hay lùi một bước để tiến ba bước, ngụ ý thả lỏng hay làm lơ để địch mất sự phòng bị hay lo sợ rồi ra tay, (17) kế “thả hòn đất, cất hòn vàng” hay bỏ con tép bắt con tôm, hy sinh cái nhỏ để đạt việc to, (18) kế “bắt giặc phải bắt tướng” dựa theo Tôn Tử là diệt được đầu não của địch là quan trọng, phá quân địch là thứ yếu, (19) kế “rút củi đáy nồi” hay nhổ cỏ phải nhổ tận gốc, hàm ý phải giải quyết vấn đề từ cái nguyên nhân, (20) kế “đục nước béo cò” dựa vào Tôn Tử là làm rối lên nhưng mình không được rối, (21) kế “ve sầu lột xác” đây là kế thoát thân làm cho địch không kịp phát hiện ra, (22) kế “đóng cửa bắt cướp” dựa vào thuật bao vây của Tôn Tử, (23) kế “xa thì giao hảo, gần thì tấn công“, kế nầy áp dụng yếu tố địa lý chính trị như TQ đã làm với VN, (24) kế “mượn đường phạt Quắc” do sự tích nước Tấn muốn đánh nước Ngu nhưng nói với nước Ngu là muốn mượn đường nước Ngu để đi đánh nước Quắc, (25) kế “trộm xà thay cột”
dựa vào Tôn Tử là điều động binh như thế nào để địch phải biến hóa
theo, đến một lúc địch mất đi cái thế mạnh mà lòi ra cái thế yếu, (26)
kế “chỉ chó mắng mèo” hay giết gà để răn khỉ, dựa vào Tôn Tử về lệnh bằng văn trị bằng võ, (27) kế “giả dại qua ải” dựa vào Tôn Tử để lừa địch trong thời kỳ ta còn chuẩn bị, (28) kế “qua sông đốt thuyền” hay lên nóc rút thang, dựa vào Tôn Tử phải giành chiến thắng ở nơi đất chết, (29) kế “hoa nở trên cành” dựa vào Tôn Tử về việc nghi binh, (30) kế “chuyển ngôi chủ khách” dựa vào Tôn Tử là biến thế thụ động thành chủ động, thế khách thành thế chủ, (31) “mỹ nhân kế” dựa vào Hàn Phi Tử, (32) “không thành kế” dựa vào Khổng Minh lừa Tư Mã Ý bằng cách lấy không làm có, lấy ít làm nhiều, (33) kế “phản gián” dựa vào Tôn Tử dùng tình báo của địch để đánh địch, (34) “khổ nhục kế” dựa vào thời Chiến Quốc chịu khổ nhục trá hang để lấy lòng tin của địch, (35) “liên hoàn kế” tức là dùng nhiều kế cùng một lúc theo thế liên hoàn hổ tương nhau, (36) kế “tẩu vi thượng sách” dựa vào Ngô Tử, không thắng thì chạy cho nhanh.
Tôn Tử đặt nặng vào vấn đề chiến lược và dùng sự tính toán cao thấp
để chiến thắng đối phương, nó rất phù hợp với khoa học lãnh đạo và quản
trị của các đại học Tây Phương kim thời vì họ luôn luôn tập trung vào
những vấn đề chiến lược (strategy) và kế hoạch (plans). Tôn Tử không
đánh địch một cách trực tiếp mà tìm cách đánh vào các chiến lược, chương
trình và kế hoạch của địch.
Chiến tranh hay hòa bình đều chỉ là môi trường của sự tranh đấu. Ngày
nay, trong Thời Đại Thông Tin và môi trường hòa bình, chúng ta không
thể dùng phương tiện của chiến tranh, tức vũ lực, để tranh đấu với CSVN
một cách hữu hiệu được. Nhưng chúng ta có khả năng đánh vào ý thức hệ,
các chiến lược, chương trình và kế hoạch của chúng.
Nếu khôn khéo, chúng ta có đủ khả năng để luôn luôn quyền biến như
cách điều binh thần tình của Tôn Tử và một sự hòa hợp, đoàn kết trước
khi lâm trận như Ngô Tử quan niệm. Với khả năng sáng tạo, chúng ta có
thể làm nên một bản nhạc nhiệm mầu mà các nhạc công với nhạc cụ riêng
của mình (tức các tổ chức chính trị riêng rẽ) đều có thể tham gia để
nhân dân Việt Nam được thưởng thức một bản đại hòa tấu vang lừng của Thế
Kỷ.
Những ngày cuối năm 2011 từ 26 đến 31 tháng 12, trong Hội Nghi Trung
Ương 4 của CSVN, ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng rên rĩ trong tuyệt
vọng về “sinh mạng của Đảng và sự tồn vong của chế độ”, biểu
hiện lời trăn trối và điềm báo của một chế độ độc tài sắp tàn, khi thế
giới chào đón năm mới 2012 với sự nở hoa của các chế độ dân chủ. Nếu áp
dụng chiến lược Tôn Ngô cho cuộc cách mạng ở Việt Nam và thành công, thì
chúng ta sẽ có được một nước Việt Nam trọn vẹn mà không bị sức mẽ.
Lê Minh Nguyên
Luận Về Tôn Ngô Binh Pháp
Thứ Sáu, 5 tháng 9, 2014 | comments
Tin, bài liên quan
Chuyên mục:
Kiến thức DC
,
Lê Minh Nguyên
Đăng nhận xét