Không thể hiện đại hóa tâm trạng
(Theo Văn Hóa Nghệ An)
Bản sắc dân tộc là những mã số văn hoá ẩn tàng bền vững trong
chiều sâu tâm thức một cộng đồng, chi phối tâm trạng con người trong các
bối cảnh xã hội khác nhau. Mất bản sắc con người trở nên khắc khoải, bơ
vơ về mặt tinh thần, suy giảm năng lượng sống. Do đó, vấn đề phát triển
luôn luôn phải gắn liền với vấn đề bản sắc như hình với bóng. Vì người
ta có thể hiện đại hoá xã hội, hiện đại hoá hành vi và công cụ, nhưng
không thể hiện đại hoá tâm trạng con người.
Ông Đỗ Minh Tuấn
Bản sắc với tâm thức và tâm trạng cộng đồng
Phan Thắng: Thưa anh, có lẽ ít có một đối
tượng nào, vấn đề nào và khái niệm nào mà lại được bàn nhiều, nhiều
giới bàn nhưu là tính dân tộc và bản sắc dân tộc. Mỗi người, tùy vào
nghề nghiệp, vị trí, trình độ…hiểu và nói theo một cách. Đó là chưa kể
đến tính lịch sử của nó, co nghĩa là nay nói thế này, mai nói thế khác.
Còn anh, hiện nay, anh hiểu về tính dân tộc như thế nào? Nó là cái gì?
Nó được thể hiện ra trong cuộc sống như thế nào?
Đỗ Minh Tuấn- “Tính dân tộc”,”bản sắc dân tộc”
là những khái niệm văn hoá học gắn liền với não trạng, cấu trúc tâm lý,
tập quán tiếp nhận và phương thức bộc lộ, giao lưu, hành xử của một
cộng đồng. Tính dân liên quan sâu sắc đến tâm trạng khá ổn định của một
cộng đồng, chi phối những buồn vui, lo âu, hy vọng của con người như một
mã số đặc trưng.
V.Alexanderrovits Mau đã đưa ra định đề khắc nghiệt: “Sang Tây-mất bản sắc. Sang Ðông mất đầu”.
Bản sắc là một thực thể hay chỉ là một bóng ma hù doạ nhân loại, làm
một thứ kỳ đà cản mũi sự nghiệp toàn cầu hoá? Cái này nhiều ý kiến khác
nhau, thậm chí có vẻ có mâu thuẫn về quan niệm ngay trong một học giả.
Alvin Toffler trong cuốn Làn sóng thứ ba đã từng coi bản sắc là một thứ bảo bối lạc hậu của các nước nghèo. Thế nhưng, cũng chính ông này trong cuốn Cú sốc tương lai
lại cho rằng bản sắc và những nghi lễ rườm rà của các xã hội chưa phát
triển là chỗ dựa, là một thứ hầm trú ẩn chống lại những cú sốc tâm lý
của thời đại, tránh cho con người một sự quá tải do phải lựa chọn quá
nhiều. Còn một nhà nhân chủng học Canada đã thì lại cho rằng bản sắc là
một nguồn giải thoát vì nó biến hỗn độn thành trật tự và tạo cho thế
giới có được ý nghĩa.
Phan Thắng: Sự ổn định của bản sắc dân tộc thể hiện ở những khía cạnh nào? Và cái gì là ổn định nhất?
Đỗ Minh Tuấn- Nói về sự ổn định của bản sắc trong đời
sống một dân tộc thì rất nhiều khía cạnh, nhưng có thể thấy bản sắc
chui sâu nhất vào tâm trạng, nằm lỳ lâu nhất trong tâm trạng con người.
Đời sống văn hoá của một cộng đồng có thể biến động, phát triển, theo
hướng hiện đại hoá, đảo lộn nhiều giá trị, nhiều tiêu chuẩn hành vi
truyền thống. Nhưng tâm trạng chung của con người cộng đồng không thể
hiện đại hoá được, nó là những ký ức văn hoá truyền đời, mất nó, hiện
đại hoá nó là xoá bỏ cộng đồng về mặt văn hoá và bản sắc.
Nói rằng không thể hiện đại hoá tâm trạng là vì tâm trạng con người gắn
chặt với bản sắc của tộc người họ sống. Chẳng hạn, người dân trong thế
giới thứ ba đã bao đời nay tìm thấy niềm vui sống trong những điều kiện
sống vô cùng nghèo khổ. Khi xã hội hiện đại hoá, họ có thể giàu có hơn,
nhưng tâm trạng của họ khi mang bán những hàng hoá thủ công do tay mình
làm ra hay những gia súc đã gắn bó với mình như bè bạn họ vẫn có nỗi
buồn của sự mất mất về tình cảm. Nỗi buồn đó nhiều khi chiếm lĩnh cuộc
sống và tâm hồn họ, không còn chỗ cho niềm vui của việc có nhiều tiền.
Vì thế, theo các nhà văn hoá học, ở mỗi xã hội đang trong tiến trình
hiện đại hoá thì vấn đề bản sắc phải đặt ra đầu tiên với quy mô và mức
độ quan trọng tương đương, vì vấn đề bản sắc gắn liền với tâm trạng cộng
đồng, với chất lượng sống mà họ cảm nhận được trong từng giây phút. Nó
tạo ra sự khắc khoải trong mỗi ngày sống, như con cá bị mất nước, khi nó
bị môi trường phát triển cướp đi mất môi trường sống cho những buồn
vui, hy vọng truyền kiếp của mình.
Phan Thắng: Vâng, nhưng người ta có thể có những niềm vui mới, những hy vọng mới?
Đỗ Minh Tuấn- Dĩ nhiên là thời buổi hiện đại hoá luôn
có thêm những niềm vui mới, Karraoke, Iphon, chit chat, Tivi.v.v. Nhưng
bản sắc đã khiến những thứ đó trở nên xa lạ và vô nghĩa với một bộ phận
người không có khả năng đổi thay về văn hoá. Vì thế, vấn đề bản sắc
luôn song hành với vấn đề phát triển như hình với bóng. Không quan tâm
đến chuyện giữ bản sắc, chỉ chúi mũi vào hiện đại hoá thì sẽ có nguy cơ
trở thành sát thủ văn hoá, diệt tộc về văn hoá. Mất nước một dân tộc vẫn
tồn tại, như người Do Thái trước đây, nhưng mất văn hoá là mất tất cả,
không còn dân tộc nữa. Cách đây hơn chục năm, thấy dự thảo báo cáo chính
trị của Đại hội Đảng có đến mấy chục lần nói đến từ “phát triển”, nhưng
chỉ có một lần nói đến “bản sắc”, tôi cho rằng Dự thảo đã thiếu sự quan
tâm đúng mức đến mối quan hệ giữa phát triển và bản sắc, nên đã viết
bài góp ý trên báo Văn Nghệ. Sau đó, trong Nghị quyết Đại hội, vấn đề bản sắc được nhấn rõ hơn.
Phan Thắng: Anh hiểu thế nào về khái niệm
bản sắc dân tộc? Mối tương quan giữa bản sắc dân tộc và bản sắc văn hóa
dân tộc nên hiểu như thế nào? Nó là hai trong một hay một trong hai?
Tính dân tộc và văn hóa dân tộc có bất biến không? Tại sao?
Đỗ Minh Tuấn- “Bản sắc” trở thành khái niệm trọng tâm của khoa học xã hội trong thời đại toàn cầu hoá. Ở Hội nghị khoa học quốc tế Toàn cầu hoá và xây dựng các bản sắc cộng đồng tổ
chức khoảng gần hai mươi năm trước tại Hà Lan người ta đã tập trung
khẳng định vai trò của công cuộc toàn cầu hoá trong việc tạo ra sự khác
biệt về văn hoá. Cũng có nhiều ý kiến cho rằng nên nhấn mạnh nhiều hơn
đến bản sắc dân tộc, hơn là bản sắc văn hoá vì bản sắc
thường hẹp hòi, kỳ thị, gây ra khủng bố và bạo lực. Nhưng bản sắc dân
tộc thì không chỉ nằm trong văn hoá mà nằm trong giáo dục, kinh tế và
chính trị. Chẳng hạn, bẹ ngô gắn với nền công nghiệp hiện đại ở Mehico,
nhưng bẹ ngô lại được coi là “truyền thống”, là bản sắc Mehico đích
thực.
Không nên đối lập bản sắc dân tộc với toàn cầu hoá
Phan Thắng: Anh và tôi có vô lý không khi
ngồi trao đổi với nhau về một câu chuyện “xưa như trái đất” thế này?
Tôi vẫn tự hỏi tại sao lại thế nhỉ. Điều này có cần cho cuộc sống hôm
nay đang vô cùng ồn ào, hỗn độn trong một cơn lốc xoáy không thể cưỡng
lại là “toàn cầu hóa”?
Đỗ Minh Tuấn- Quan điểm đối lập toàn cầu hoá với bản
sắc khá phổ biến trong cuối thế kỷ trước, Người ta cho rằng toàn cầu hoá
là Mỹ hoá, mất hết bản sắc. Nỗi lo ấy cũng không phải là không có cơ
sở. Toàn cầu hoá có nguy cơ bứt con người ra khỏi dòng chảy chậm rãi
thanh bình của văn hoá, ném nó vào thị trường, đo nó bằng những tiêu
chuẩn của hàng hoá, bắt nó chịu những bất trắc của việc mua bán chợ búa,
bắt nó phải gồng mình lên, tăng tốc cuộc sống, mất đi những niềm vui
sống chậm bao đời nay. Khi tính sáng tạo không còn bắt nguồn trong vô
thức cộng đồng, thì văn hoá dân tộc sẽ bị tiêu diệt, trở thành bản sao
của các nền văn hoá mạnh. Người ta đã nói rất nhiều đến chủ nghĩa toàn
thống điện tử như thủ phạm tạo ra thứ văn hoá công nghệ hoá mất hết tính người, sản sinh những phiên bản văn hoá ngoại lai, hoàn toàn mất gốc.
Nhưng sự mâu thuẫn chỉ là bề ngoài. Một mặt, toàn cầu hoá đưa đến nguy
cơ về một trận đại hồng thuỷ của nền văn hoá Cocacola, mặt khác, nó lại
tạo cơ hội để phát triển và quảng bá bản sắc dân tộc qua giao lưu kinh
tế và văn hoá. Luôn có hai mặt. Người châu Phi coi hàng hoá phương Tây
là một thứ quỷ sứ, nhưng người ta lại coi máy ghi âm có vai trò chủ chốt
trong việc truyền bá đạo Hồi tại Bắc Phi và Trung Ðông. Vì thế, những
vùng ấy lại là những cái chợ khổng lồ bán băng cát-set của các vị chủ
tế đạo Hồi.
Phan Thắng: Có phải là hiện tượng gắn liền với nhu cầu về đa dạng văn hoá, bất chấp những quan điểm bảo thủ nhân danh bản sắc?
Đỗ Minh Tuấn- Đúng. Nhu cầu về tính đa dạng văn hoá
trong phạm vi nhân loại ngày càng nổi lên như một cái gì tất yếu, tương
tự như tính đa dạng sinh học vậy. Ilya Prigogine, một nhà khoa học được
nhận giải Noben đã nói rất hay rằng khoa học chỉ trở nên phổ biến khi
nó có khả năng đối thoại với các dân tộc của mọi nền văn hoá và có khả
năng tôn trọng các vấn đề riêng của họ.
Có thể nói, sức đề kháng của các nền văn hoá bản địa cũng tạo nên một
sức ép khiến cho các nền văn hoá lớn ngoại nhập phải biến dạng để thích
nghi nghi với phong tục tập quán, khẩu vị, tính cách, lối sống .v.v. của
khách hàng bản địa. Vì thế các tiệm ăn Macdonald ở các nước rất khác
nhau trong phục vụ. Nếu như ở Mỹ Macdonald chỉ cần phục vụ nhu cầu ăn
nhanh của những khách hàng bận rộn thì ở Pháp Macdonald phải bán thêm
bia và cafe cho khách hàng nhâm nhi, vì họ không thể ăn nhanh ngấu ghiến
như người Mỹ ăn loại bánh này. Chính quy luật cung cầu của thị trường
đã nuôi dưỡng bản sắc đa dạng của các thị trường trong tiến trình nối
kết toàn cầu hoá. Cách thích nghi với các nền văn hoá khác nhau của
Macdoanld cũng giống như cách thích nghi của phim hoạt hình Doremon vậy.
Phim hoạt hình Doremon mang bản sắc Nhật Bản xâm nhập mạnh mẽ
vào những xã hội khác nhau về văn hoá vì họ biết tạo cho Doremon một sự
đa dạng, hiểu biết và cảm thông về văn hoá với các dân tộc khác. Khi
xuất hiện trên TV các nước khác, Doremon tỏ ra hiểu biết rõ
những khác biệt của thị trường và thị hiếu người tiêu dùng ở nước đó.
Người ta đã nói rằng Doremon của Nhật Bản là một ví dụ của sự hình
thành bản sắc xuyên quốc gia trong quá trình hội nhập toàn cầu hoá.
Phan Thắng: Vậy là toàn cầu hoá cũng là điều kiện cho các đan tộc giữ gìn bản sắc của mình thong qua sự thích nghi và chia sẻ?
Đỗ Minh Tuấn- Đúng vậy. Toàn cầu hoá không chỉ làm cho
bản sắc dân tộc trở nên đa dạng, đổi mới và thân thiện, mà còn giúp
quảng bá những giá trị bản địa khắp thế giới. Tiến sĩ Lee Yuen Tseh,
Chủ tịch Viện hàn lâm khoa học Ðài Loan, người được trao giải NoBen, đã
nói: “Chính sự thành công của kinh tế Ðông Á đã tạo ra danh tiếng cho Khổng giáo”.
Jonh Naishbit nhà tương lai học người Mỹ đã nhận xét đại ý phương Tây
kỹ thuật cao nhưng thíếu thần linh nên giờ đây lại đang hướng sang
phương Ðông. du nhập những thần linh và tôn giáo của phương Đôngvới một
nhiệt thành hầu như không bao giờ cạn.” Jonh Nashbit còn cho rằng người
phương Đông đang khai sinh một mô hình mới cho việc hiện đại hoá, cung
cấp ý nghĩa mới cho từ hiện đại hoá, và sẽ tạo ra mô hình cho một nền
văn minh mới.
Nghiên cứu, hội thảo về bản sắc: Thực dụng hời hợt và công thức
Phan Thắng: Tôi được biết, lâu nay chúng
ta đã có nhiều quan tâm và dành nhiều nỗ lực nghiên cứu tính dân tộc và
văn hóa dân tộc, trong đó có việc tổ chức nhiều hội thảo ở các quy mô
khác nhau. Gần đây nhất là Hội thảo về tính dân tộc trong điện ảnh do
Ban lý luận TW và Hội điện ảnh tổ chức. Ông nghĩ sao về các cuộc hội
thảo? Nó có nhiều tác động và hiệu quả thiết thực với đời sống không?
Đỗ Minh Tuấn- Vấn đề tính dân tộc trong phim đặt ra
lúc này là đúng lúc, tuy hơi chậm so với những biểu hiện đáng báo động
trong đời sống điện ảnh hôm nay. Song, cách tiếp cận, cách tổ chức hội
thảo và cách đặt vấn đề của năm 2013 vẫn như cách của hàng chục năm
trước. Lẽ ra phải chiếu một số bộ phim được cho là thiếu tính dân tộc và
cả những bộ phim được cho là giàu tính dân tộc để làm đề dẫn. Những
người tham gia hội thảo sẽ phân tích xem có đúng phim này có tính dân
tộc, phim kia không có tính dân tộc không. Xưa nay không ít diễn giả cứ
nói khơi khơi, khen chê mà chưa xem phim, hoặc xem rồi cũng chẳng nhớ
phim, nhớ sai cả tên nhân vật, hoặc cứ nói theo cảm tính, nói theo ấn
tượng truyền thông. Ở đây tôi không nói đến việc tổ chức Hội thảo về
tính dân tộc vì những mục đích thực dụng trwosc mắt, chẳng hạn như đẻ
tiêu tiền, hay để chuẩn bị tung ra một dự án tiền tỷ về vấn đề giữ gìn
bản sắc. Ở đây tôi chỉ nói đến chất lượng học thuật chuyên môn thuần
tuý. Có cảm giác như hội thảo lấy những đồ trong tủ lạnh từ hàng chục
năm trước ra xài, không chạm đến những tử huyệt của đời sống điện ảnh
hôm nay từ góc nhìn dân tộc tính. Vì thế hết sức công thức, mòn sáo, dễ
dãi và hời hợt.
Phan Thắng: Xin anh nói cụ thể hơn?
Đỗ Minh Tuấn– Nhìn chung các Hội thảo chỉ nói đi nói
lại những cái hời hợt bề ngoài, công thức, không chỉ ra được tính dân
tộc hay tính ngoại lai trong các vấn đề, nhân vật, tâm trạng, ngôn ngữ
điện ảnh của các phim cụ thể từng thời kỳ. Đây là vấn đề học thuật mà
hội thảo hai mươi năm trước đã nói nhưng hội thảo này lại chưa đề cập
đến, trong khi vấn đề ngôn ngữ điện ảnh của phim thị trường hiện đang là
vấn đề bức xúc. Chỉ có tham luận của đạo diễn Đặng Nhật Minh nói đến
vấn đề cốt chuyện của một số phim ăn cắp của nước ngoài, khiến cho phim
thiếu tính dân tộc, hình như ám chỉ phim “Bụi đời chợ lớn”. Thực ra,
tính dân tộc không nằm nhiều trong cốt chuyện. Bằng chứng là cốt chuyện
phim “Bao giờ cho đến tháng Mười” của Đặng Nhật Minh giống hệt truyện
ngắn “Thư” của nhà văn Lý Chuẩn (Trung Quốc) đăng trên tập chí Văn nghệ quân đội số 9-1958, nhưng bộ phim vẫn được nhiều người cho là giàu tính dân tộc”.
Công tác nghiên cứu lý luận phê bình điện ảnh của ta nhìn chung hết sức
hời hợt, dập khuôn. thiên về ấn tượng cảm tính bề ngoài. Khi nói về
tính dân tộc thì nghĩ ngay đến cây đa, bến nước, sân đình, áo the khăn
xếp.
Phan Thắng: Vậy theo anh, cần đi sâu vào khía cạnh nào, tiếp cận từ góc độ nào thì mới có thể phát hiện được tính dân tộc trong phim?
Đỗ Minh Tuấn- Tính dân tộc trong phim trước hết thể
hiện ở tâm trạng Việt, cốt cách Việt và ứng xử Việt - mẫu số chung khá
ổn định về văn hoá và tâm thức bộc lộ cả qua những hình thức tân thời.
Phải xây dựng được con người Việt Nam muôn thưở, dù cho anh là đại gia
hay nghèo khó, dù trong hoàn cảnh xã hội nào thì vẫn phải là con người
ấy, cốt cách ấy qua những biểu hiện cao cả hay lố bịch.
Phan Thắng: Anh đã thể hiện tính dân tộc trong các tác phẩm văn học và điện ảnh như thế nào?
Đỗ Minh Tuấn- Có thể nói thường trực trong hơn 600
trang thơ của tôi là những khắc khoải day dứt của tâm trạng Việt xuyên
suốt qua tâm cảm của người mẹ người vợ, người yêu, người lính, trẻ em và
những người lao động bình thường khác. Đó là những day dứt về tình
thương, thân phận và sự hiến dâng số phận cá nhân trong những môi trường
khắc nghiệt, thậm chí xót xa thương cả những anh hùng. Trong tiểu
thuyết “Thần thánh và Bươm bướm” tôi đã cố gắng khắc hoạ não trạng của
người Việt qua những lo toan phù phiếm và sâu thẳm, những hy vọng đổi
đời pha lẫn bi hài kịch, những khát khao mở mày mở mặt trước cộng đồng,
những bạo lực bùng phát ngẫu nhiên từ mặc cảm về thân phận…Và xuyên suốt
tất cả là sự mai một đến xót xa của một nền văn hoá đã bắt rễ sâu trong
tâm trạng, ký ức và số phận. Cho nên, các GS Phong Lê, Trần Đình Sử,
Phương Lựu, Phan Huy Dũng…đều khẳng định tiểu thuyết của tôi là câu
chuyện về văn hoá Việt Nam, về món nộm văn hoá Việt Nam trong thời buổi
kinh tế thị trường và hội nhập. Nhiều người cũng đã chỉ ra chất dân tộc
trong hội hoạ của tôi thể hiện qua đề tài màu sắc và bố cục. Hoạ sỹ Lê
Huy Quang nói tranh tôi mang màu sắc tranh Đông Hồ. Đạo diễn Tự Huy cho
rằng tôi không dùng bảy sắc kiểu phương Tây mà dùng ngũ sắc cầu vồng của
dân tộc Việt Nam. Còn trong phim của tôi, dù là phim sử thi hay phim
thế sự, phim tâm lý xã hội hay phim hài phim nào cũng mang mã số văn hoá
Việt.
Phan Thắng: Anh có thể nói cụ thể hơn về một vài phim tiêu biểu của anh?
Đỗ Minh Tuấn- Phim đầu tay “Ngọn đèn trong mơ” của
tôi kể về một em bé tốt theo cách thông thường của người Việt, chứ không
tốt theo cách một anh hùng nhỏ tuổi như các nhân vật phim thiếu nhi
trước đó. Em bị bỏ rơi, sống không gia đình, nhưng em vẫn luôn muốn làm
một người con tốt, một người em tốt, một người bạn tốt. Những cái tốt
bình dị đời thường ấy đã làm nhiều người xem xúc động. Một nhà phê bình
Nga đã thấy em như một Đức Chúa Giesu 15 tuổi bị đóng đnh trên cây thập
giá của những giá trị nhân văn truyền thống. Phim đã được 15 nước mua.
Phim “Hoa của Trời” là một một phim Thiền về chiến tranh phá hoại. Phim
kể chuyện em Ky, một cậu bé nhà quê chân chất bao lâu nay sống dưới rặng
tre làng nhàm chán, chỉ thấy con gà con trâu như thú nuôi, bỗng một hôm
cô bé Lan Anh từ thành phố về sơ tán ngạc nhiên thích thú trước cảnh
vật làng quê đã khiến Ky bừng ngộ vẻ đẹp của hồ sen, của những cánh chim
câu trong lò gạch bỏ hoang…và em đã biết nhìn con trâu con gà như bè
bạn. Ông nội em vì muốn bảo vệ con gà trống mà Ky yêu quý mà đã lao tra
trong bom để cứu con gà và bị trúng mảnh bom…Phim “Vua bãi rác” kể
chuyện những con người đưới đáy quần tụ trên bãi rác, yêu thương đùm bọc
nhau, chia sẻ với nhau những vui buồn và hồ hởi biến bãi rác thành một
tác phẩm trình diễn và sắp đặt lung linh như Paris đêm Giáng sinh. Họ
mang cốt cách Việt ở chỗ luôn luôn giữ được tình người, luôn tự trọng
và muốn vươn lên, ngay cả khi ở trong những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất.
Ngay cả cái ước mơ hài hước của Trọng - một đại ca bãi rác - mơ được đón
dâu bằng trực thăng trên bãi rác bụi mù, cũng rất đặc trưng cho cốt
cách con người Việt Nam.
Phan Thắng: Hiện đại hoá là một nhu cầu thường
trực tất yếu của quá trình phát triển. Ở trên anh đã nói không thể hiện
đại hoá tâm trạng, Vậy quá trình hiện đại hoá có giúp gì cho việc bảo
tồn và phát triển bản sắc Việt, tâm trạng Việt hay không? Theo anh, chủ
trương của nhà nước ta coi công nghệ thông tin là nền tảng của quá trình
phát triển có gì mâu thẫn với yêu cần bảo tồn bản sắc?
Đỗ Minh Tuấn- Hiện đại hoá nói chung và sự phát triển
công nghệ cao nói riêng không có gì mâu thẫn với yêu cầu giữ gìn bản
sắc.Trái lại nó còn giúp cho việc truyền thừa và quảng bá bản sắc văn
hoá Việt. Lấy ví dụ như công tác Bảo tàng, chúng ta có thể sử dụng công
nghệ cao để làm các phòng trưng bày ảo, phục hiện một cách sống động và
hấp dẫn lịch sử và văn hoá của dân tộc Việt Nam, từ đó bồi đắp them cho
khách tham quan tình cảm và nhận thức về bản sắc. Vấn đề này cần có cuộc
trao đổi riêng mới nói đầy đủ được. Ngay trong điện ảnh, kỹ xảo có thể
giúp chuyển hoá một bối cảnh Trung Quốc thành một bối cảnh Việt. Chẳng
hạn, bối cảnh cung điện triều đình tại trường quay Hoành Điếm Trung
Quốc. giật cấp quá cao, thể hiện sự xa cách của triều đình với nhân dân.
Nếu muốn dùng quay phim lịch sử Việt nam thì có thể dùng kỹ xảo để làm
cho khoảng cách giữa sân và thềm thấp xuống, biến thành bối cảnh mang
văn hoá Việt Nam.
Phan Thắng: Cám ơn anh về những ý kiến trao đổi rất thẳng thắn và sâu sắc trên một đề tài đang được xã hội rất quan tâm.
(Nguồn Văn Hóa Nghệ An)
Không thể hiện đại hóa tâm trạng
Thứ Sáu, 5 tháng 9, 2014 | comments
Chuyên mục:
Đỗ Minh Tuấn
,
vấn đề dân tộc
Đăng nhận xét