Bàn Về Hai Chữ “Văn Minh”

Thứ Sáu, 5 tháng 9, 2014 | comments

Văn minh nghĩ lại còn nhiều việc
Lý Đông A
I.
“Sau năm 1975, đảng Cộng Sản Việt Nam thống nhất đất nước, ngọn cờ “giải phóng” và “dân tộc” được sử dụng trong thời kỳ chiến tranh được xếp qua một bên, Đảng Cộng Sản VN được rảnh tay, lại vận động “chủ nghĩa yêu nước” để thực hiện sứ mệnh cách mạng vô sản. Một chế độ độc tài toàn trị được thiết lập trên toàn đất nước.


 Với nhiệt tình thôi thúc từ  ngọn lửa cách mạng Tháng Mười của Nga, với kinh nghiệm cải cách ruộng đất miền Bắc năm 1956 học tập từ Trung Cộng, đảng cộng sản Việt Nam đã thực hiện chính sách đánh tư sản mại bản, đốt sách để tiêu diệt văn hoá phẩm, được gọi là “đồi trụy” của miền Nam, tịch thu ruộng đất để tập thể/hợp tác hoá nông nghiệp, đổi tiền, quốc hữu hoá tài sản nhân dân trên toàn quốc…  Giấc mơ giải phóng Việt Nam khỏi bàn tay của đế quốc để biến Việt Nam thành một nước Cộng Sản của các tiền bối cách mạng cộng sản Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 đã trở thành sự thật.

Sau thời kỳ phát động khẩu hiệu “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa“, những người cộng sản VN khám phá ra rằng tiến nhanh tiến mạnh lên xã hội chủ nghĩa là một hành trình khó khăn.  Sư thực hiện chủ nghĩa Cộng Sản chẳng những không làm cho đất nước tiến được vững chắc, mà còn lùi nhanh lùi mạnh.  Trên thực  tế, quá trình cải tạo và xây dựng  xã hội chủ nghĩa đó đã làm cho đất nước điêu tàn, nhân dân  nghèo đói và đưa đất nước đến bến bờ phá sản.

Trong tình trạng bế tắc của mâu thuẫn nội tại xã hội chực chờ bùng nổ, tại Liên Sô tổng bí thư Gorbachev phải đưa ra chính sách Glasnost & Perestroika để cứu vãn đất nước và hệ thống XHCN ở Đông Âu.  Trong giai đoạn  thập tử nhất sinh đó,  dưới ảnh hưởng và áp lực của Liên Sô, đảng Cộng Sản Việt Nam đã phải đưa ra chính sách “đổi mới” qua Đại hội VI năm 1996 để tìm đường thoát hiểm.

Từ đại hội VI năm 1996, cương lĩnh của ĐCSVN bổ xung thêm những đặc trưng XHCN mà Mác-Engel chưa từng đề cập tới. Đặc trưng số một trong tám đặc trưng quan trọng nhất của cương lĩnh của đại hội VI là “Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh“.  Cho đến đại hội XI năm 2011 vừa qua, cương lĩnh chính trị của ĐCSVN cũng tái xác nhận đặc trưng“Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”  là mục tiêu hàng đầu của đảng, và là khẩu hiệu để tuyên truyền xây dựng đất nước.

Hãy tạm để qua mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh“, khẩu hiệu kêu gọi toàn dân xây dựng đất nước”công bằng dân chủ văn minh” phản ảnh mơ ước của hằng bao thế hệ Việt Nam hơn 100 năm nay.  Từ mối nhục mất nước vào tay thực dân Pháp, đến sự tàn phá của chiến tranh giành độc lập và chiến tranh Quốc Cộng, đến thời kỳ tăm tối để tiến lên xã hội chủ nghĩa làm đất nước thụt lùi cả  hàng nhiều thập kỷ  so với các nước lâng bang, không một người Việt nào không có giấc mơ được sống công bằng dân chủ văn minh như các quốc gia tân tiến khác trên trên thế giới.
Một mặt đảng cộng sản kiên trì bảo vệ nền độc tài độc đảng để khống chế xã hội và con người; mặt khác đảng mời gọi mọi người  xây dựng một xã hội công bằng dân chủ văn minh.  Sự thể nầy đặt lại vấn đề rất căn bản là liệu chế độ cộng sản có thể xây dựng một đất nước có công bằng dân chủ văn minh hay không?

II.
Chúng ta quen sử dụng hai chữ văn minh để chỉ dấu cho sự tiến bộ của con người và xã hội.  Nhưng một con người văn minh là gì?  Một xã hội văn minh là gì?
“Văn” là “đẹp” và “minh” là “sáng”.  Nguyên nghĩa của “văn minh” có nghĩa là “sáng đẹp”.  Nhưng thế nào là một con người hay xã hội sáng đẹp?
Tự điển bách khoa mở định nghĩa và diễn giải hai chữ “văn minh” như sau:
Văn minh là sự kết hợp đầy đủ các yếu tố tiên tiến tại thời điểm xét đến để tạo nên, duy trì, vận hành và tiến hoá xã hội loài người. Các yếu tố của văn minh có thể hiểu gọn lại là di sản tích luỹ tri thức, tinh thần và vật chất của con người kể từ khi loài người được hình thành cho đến thời điểm xét đến. Đối nghịch với văn minh là hoang dã, man rợ, lạc hậu. Khái niệm văn minh chỉ mang tính tương đối, có tính so sánh tại thời điểm xét đến mà không có giá trị tuyệt đối.

Ý niệm “văn minh” do đó, là sự “sáng đẹp” đi liền với sự duy trì vận động và tiến hoá của xã hội loài người.  Đó là một vận động hướng thượng để đưa loài người lên một trình độ cao hơn, đẹp hơn, gần với những giá trị nhân bản hơn, và xa cách đời sống dã man của động vật trong thiên nhiên hơn.

III.
Sự hình thành đời sống người từ thời hồng hoang đến nay là một một cuộc vật lộn liên tục giữa con người với xã hội và thiên nhiên.  Từ thời kỳ sống trong hang, hái lượm trái cây, sống lẫn ở lẫn với thiên nhiên và các loại cầm thú khác, loài người ý thức được nhân tính và dần dà tách ra khỏi đời sống thiên nhiên để thực hiện đời sống người.

Nhà cách mạng Lý Đông A trong tài liệu Duy Nhân Cương Thường cho rằng sự xuất hiện của nhân thể (human form) chưa phải là sự thành hình đời sống người trong ý nghĩa đối nghịch với đời sống cầm thú.   Do đó, sự xuất hiện của tập đoàn sinh vật có nhân thể chỉ là sự xuất hiện của người dự bị, hay ngợm sắp thành người.

Lý Đông A cho rằng nhân thể trở thành người khi tập đoàn nhân thể đó biết tái sản xuất sản xuất của tự nhiên như biết trồng trọt, chăn nuôi, nướng thịt – mà ông gọi là tái sản xuất cái sản xuất của tự nhiên; và biết tu chỉnh lối sinh sản đực-cái của thú vật để chuyển thành lối sinh sản chồng-vợ và thành lập gia đình – mà ông gọi là tái sinh sản cái sinh sản của tự nhiên.  Ông cũng cho rằng loài người tiếp tục tu chỉnh cách sống chung kiểu bầy đoàn thú vật “mạnh được yếu thua, khôn sống mống chết” để chuyển thành cách “sống còn, nối, tiến hóa đến vô cùng”, để thành lập xã hội loài người, và luôn luôn tăng tiến hiệu xuất của xã hội theo chiều hướng thuợng, “ngày một mới” – mà ông gọi là tái hiệu xuất cái hiệu xuất của xã hội và lịch sử.

Lý Đông A cho rằng chính sự kiện tập đoàn nhân thể thời hồng hoang biết cải biến thiên nhiên để phục vụ cho mình chính là cuộc cách mạng đầu tiên đưa bầy đoàn ngợm thành xã hội người, và lập thành nhân đạo.  Nhân đạo là cách sống và đường sống đặc thù của loài người khác loài vật.
Quá trình chung sống thông qua giai đoạn cách mạng nông nghiệp và xã hội đầu tiên đó của loài người nẩy sinh ra những qui luật để taọ ra đời sống người.  Qua quá trình tiến hóa đó sinh vật gọi là người trên nhân thể trở thành người có nhân tính và nhân đạo.  Nhân đạo và nhân tính là yếu tính đương nhiên của xã hội loài người, nếu không thì đó là một bầy đoàn thú vật.

Lý Đông A gọi xã hội đầu tiên có nhân tính đó là ‘xã hội tự tính”.  “Xã hội tự tính” đó phải trải qua thời gian và điều kiện không gian để phát huy và phát triển. Lịch sử, theo Lý Đông A, là lịch sử nhân đạo, là quá trình hiện thực hóa “xã hội tự tính” qua thời gian và không gian.

Qua cuộc sống thực tiễn, tích lũy kinh nghiêm sống còn, nối, tiến hóa của hàng triệu năm, con người, dù đông phương hay tây phương, đã dần dần chuyển được tính sống còn tự nhiên của mọi loài sinh vật thành nhân tính đặc thù của loài người. Quá trình đó tạo thành đường sống đặc thù của loài người mà ngày nay chúng ta gọi là nhân đạo. Chính sự xuất hiện của nhân đạo và nhân tính mới làm cho loài người khác với loài vật. Chính “xã hội tự tính” làm nên xã hội loài người, khác với bầy đoàn thú vật. Xây dựng một xã hội văn minh là xây dựng một xã hội Người, theo nhân đạo, có nhân tính.
Phân tích cụ thể hơn, Lý Đông A thấy rằng, qua thời gian, nhân tính được thể hiện trên ba mặt, Trinh-Bình-Hòa:

-  Trong quan hệ giữa người và người, nhân tính yêu cầu có chữ trinh để nói lên sự trung thành với nhau.  Trung thành, trung trinh là chất keo sơn để kết hợp xã hội.  Do đó từ quan hệ đực cái của loài vật, nhân tính đòi hỏi vợ chồng phải lấy chữ trinh làm gốc khi thành lập đời sống người.  Và cũng dựa trên nguyên lý trung trinh, xã hội thiết lập định chế hôn nhân để thực hiện và bảo vệ sự trung thành đó và để bảo lưu huyết thống được sinh tồn tục, lâu dài và bền vững.  Do đó, nhân tính đầu tiên là sự trung trinh, Trinh.
-  Để giải quyết nhu cầu  ăn, mặc, ở, nhân tính chối bỏ quy luật của thiên tính tự nhiên là mạnh đưọc yếu thua, giành miếng ăn hay áo mặc.  Nhân tính hướng dẫn con người giải quyết nhu cầu sinh thực bằng sự mãn thích nhu yếu cách đồng đều.  Do đó, con người có nhân tính biết chia cơm xẻ áo cho người nghèo đói.  Đó là ý nghĩa chữ Bình.
-  Khi có mâu thuẫn giữa người và người, khi người không tôn trọng sự trung thành với nhau, khi loài người giành miếng ăn để đồng loại chết đói, hay nói cách khác, khi thú tính trội hơn nhân tính, chiến tranh sẽ xảy ra.  Khi có mâu thuẩn hay chiến tranh nhân tính đòi hỏi con người phải giải quyết xung đột bằng sự hoà giải.  Đó là ý nghĩa chữ Hoà.

Cho nên một xã hội văn minh đúng nghĩa là phải thực hiện được nhân tính Trinh-Bình-Hòa trong đời sống người.  Một xã hội văn minh đưa dẫn con người đến chổ hoàn thiện “trinh bình hoà” trong quan hệ giữa người và người. Và xã hội văn minh chính là xã hội đã xa rời xã hội dã man của loài cầm thú, luôn hướng đến và cải tiến cách thực hiện ba nhân tính cỗi gốc này của xã hội tự tính.

IV.
Chú nghĩa Mác-Engel cho rằng người vượn biến thành người là do quá trình lao động hàng triệu năm.  Chưa nói tới giá trị của thuyết tiến hoá trong sự hình thành loài người, chủ nghĩa Mác-Engel lấy một số nguyên tắc xã hội cộng sản nguyên thủy làm mô hình lý tưởng để hướng đến xây dựng xã hội Cộng Sản tương lai thông qua  sự thiết lập nền độc tài của giai cấp vô sản.
Marx, vì dựa trên qui luật của tự nhiên, nên chỉ thấy lao động là xuất phát điểm của đời sống người.  Mác không hề nhận thức được loài người thành lập là do sự xuất hiện của nhân tính.  Trong tư tưởng Mác-Engel không có sự nhận thức về nhân tính.  Kinh điển Mác-Engel không có sự mặc nhận nhân tính như là xuất phát điểm của đời sống người.  Vì thế Mác lấy xã hội cộng sản nguyên thủy làm xuất phát điểm của xã hội loài người, và chấp nhận có phương thức kinh tế tự nhiên, trong khi đây chỉ là  xã hội của một tập đoàn người vượn chỉ biết lao động, hái lượm theo bản năng tự nhiên, khi nhân tính chưa xuất hiện, và xã hội đó chỉ là tập hợp của một bầy đoàn ngợm, hay người dự bị, để chuẩn bị làm người.

Lý Đông A cho rằng sống theo tự nhiên thì chưa có kinh tế vì kinh tế là một hành động nhân vi, do con người tác động, khai thác và cái biến tự nhiên.  Chỉ từ khi con người bắt đầu tu chỉnh lại lối sản xuất theo tự nhiên thì lúc đó mới có kinh tế.  Xã hội mà Mác muốn xây dựng do đó là một xã hội không có con người và không phải của con người. Triết gia mác-xít Trần Đức Thảo đã thấy điều này trong bài viết “Vấn đề con người và chủ nghĩa lý luận không có con người”. “Không có con người”, phi nhân tính và phản nhân đạo, đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân khiến những nước xây dựng xã hội theo chủ nghĩa Mác đã thất bại và đã xụp đổ, mà tiêu biểu nhất là Liên Xô.

Đối với chủ nghĩa Mác trong quan hệ giữa người và người, sự trung thành với lý tưởng CS và giai cấp vô sản là cao nhất và tuyệt đối.  Và người ta không cần đến sự trung thành giữa người và người.  Do đó, trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa, vợ chồng , cha mẹ, con cái, anh em, bạn bè, hàng xóm láng giềng, chủ thợ phải thực hiện đấu tranh quan điểm và đấu tranh giai cấp -đấu tố lẫn nhau.  Trinh hay sự  trung thành giữa người và người không bao giờ là nền tảng của chủ nghĩa Mác. Thay vào đó là sự trung thành với Đảng.

Một mặt, Mác chủ trương xây dựng một xã hội “bình đẳng” không có bóc lột để giải quyết nhu yếu cho con người.  Một mặt khác Mác, dựa vào duy vật biện chứng, chủ trương dùng bạo lực cách mạng trong đấu tranh giai cấp để giai cấp vô sản chiếm lấy phương tiện sản xuất.

Nhưng đấu tranh giai cấp là sự áp dụng quy luật sinh tồn trong tự nhiên của động vật vào xã hội.  Đó là qui luật mạnh được yếu thua.  Mác dùng cái “mạnh” để tranh giành miếng ăn của loài cầm thú trong tự nhiên đem áp dụng vào đời sống xã hội con người.  Vì vậy trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa, những người cộng sản dùng bạo lực để xoá bỏ chế độ tư hữu để thành lập “chế độ công hữu”  nhằm thâu tóm tài sản của đất nước và của nhân dân để làm của riêng.  Đồng thời biến giai cấp tư sản cũ thành giai cấp vô sản mới để xã hội triền miên đấu tranh giai cấp.

Vì Mác chỉ  giải quyết nhu yếu loài người bằng qui luật của tự nhiên cho loài cầm thú cho nên khi vào thực tế chủ nghĩa Mác không bao giờ có thể đem lại bình đẳng cho loài người.
Để giaỉ quyết mâu thuẩn giữa ngưòi và người, giữa giai cấp và giai cấp, Mác chủ trương “hận thù giai cấp”.  Trong cuộc chiến “một sống một chết” với chủ nghĩa tư bản, người cộng sản phải đánh nhau tả tơi với đối phương như con thú dữ giành miếng ăn cho đến khi một bên ngã gục. Trong chủ nghĩa Mác hoàn toàn không có ý niệm “hoà” để hoá giải mâu thuẩn giữa người và người. Khi tổng bí thư đảng CS Liên Xô Kruschev chủ trương “chung sống hoà bình” với Hoa Kỳ và Tây Phương, ông đã bị những ngưòi “CS chân chính” chỉ trích kịch liệt và cuối cùng ông đã bị lật đổ.  Và cho đến ngày hôm nay, nhiều người cộng sản Việt Nam vẫn còn sợ hãi hiện tượng “diễn biến hoà bình.”

Khi phê phán chủ nghĩa Mác, Lý Đông A cho rằng chủ nghĩa Mác Lê đã lấy qui luật của tự nhiên áp dụng thẳng tuột vào đời sống người mà không qua nút điều chỉnh của nhân tính, và do đó, tội ác của chủ nghĩa Mác là biến loài người thành lò thí nghiệm xã hội và coi con người như “muối, sắt”.   Lý Đông A  cũng cho rằng xã hội loài người luôn có các giai tầng khác nhau, và để tiến hóa trong hòa bình ổn định các giai tầng này cần được phân công hợp tác. Khi các giai tầng mất phân công hợp tác sẽ biến thành giai cấp mâu thuẫn. Mâu thuẫn giai cấp do đó là “bệnh thái”, mà giai tầng phân công hợp tác là “thường thái” của xã hội loài người.  Do đó, Lý Đông A  cho rằng lấy bệnh thái làm qui luật thường thái để xây dựng xã hội là một sai lầm tai hại của Mác, nhưng lấy qui luật bệnh thái làm qui luật đấu tranh, gây chết chóc cho nhân loại, thì đó là một tội ác.

IV.
Nhìn từ góc cạnh Tây phương, và đứng về phương diện ngữ nghĩa, “văn minh” trong tiếng Pháp và tiếng Anh là “Civilization” .  Đó là sự kết hợp của chữ “civil” (dân sự) và tiếp vĩ ngữ  “ization” (trở thành).  Trong gốc Latin, “văn minh” có nghĩa  là “trở thành dân sự” hay “dân sự hoá“.  Như vậy, “văn minh” nguyên nghĩa của nó có nghĩa là quá trình trở thành dân sự của một xã hội.
Thoạt đầu “civilization” chưa có ý nghĩa “văn minh”.  Chữ “civil” có nghĩa là “dân sự” được dùng sớm nhất trong tiếng Latin.  Ở thế kỷ thứ 6, hoàng đế Justinian của đế quốc Byzantyne soạn bộ luật dân sự đầu tiên được gọi là “Corpus Juris Civilis“.  Cho đến thế kỷ thứ 14, chữ “civil” cũng chỉ có nghĩa là “liên hệ đến người dân”.  “Civilis” biến dạng thành “civility” có nghĩa là “lịch lãm.”
Do bối cảnh lịch sử của tây phương, cho đến giữa thế kỷ thứ 18, chữ civilization (dân sự hoá) mới có ý nghĩa đối nghịch với “dã man”.  Các sử gia cho rằng Adam Ferguson trong tác phẩm An Essay on the History of Civil Society (Luận đề về lịch sử xã  hội dân sự ) (Edinburgh, 1767 – p. 2) là tác giả người Anh đầu tiên đã sử dụng “civilization” để chỉ dấu cho sự tiến bộ của loài người bằng sự hình thành “xã hội công dân”, hay “xã hội dân sự”.

Như vậy quá trình hình thành, ý nghĩa chữ văn minh đi từ gốc Latin có nghĩa là liên hệ tới người dân.  Do chữ “văn minh” trong tiếng Việt không có chứa đựng chữ “người dân” cho nên trong ngôn ngữ Việt Nam không thấy được giá trị con người hay người dântrong hai chữ “văn minh”.
Tại sao dân sự hoá trở thành văn minh?
Từ thế kỷ thứ 15 lịch sử tây phương bước dần ra khỏi thời kỳ trung cổ với quyền lực tuyệt đối của đế quốc La Mã Thánh – The Holy Roman empire – bắt đầu suy tàn.  Đi với phong trào cải cách giáo hội của Martin Luther là phong trào độc lập của các vương quốc Âu Châu đối với giáo quyền Vatican.  Thế giới tây phương từ đó bước ra khỏi sự kiềm chế của giáo hội và uy quyền của giáo hoàng để đi vào thời đại phục hưng.

Từ đó, các tư tưởng tự do dân chủ bắt đầu xuất hiện.  John Locke với ý niệm quyền tự nhiên về đời sống, tự do và tài sản; Montesquieu với tư tưởng tam quyền phân lập; Voltaire với quyền tự do tư tưởng; Hobbes và Russeau với ý niệm khế ước xã hội và quyền lực chính thống đến từ người dân.  Các quốc gia tây phương bắt đầu đi vào một cuộc chuyển mình từ chế độ phong kiến độc tài sang chế độ dân chủ.  Cuộc cách mạng Hoa Kỳ 1776 và cách mạng Pháp 1789 đã lan rộng khắp Âu Châu đưa tới sự cáo chung của chế độ phong kiến tây phương và xã hội dân sự ra đời với sự thành hình của chế độ dân chủ.

Dân sự hoá chính quyền là giải thể chế độ chuyên chính của chế độ phong kiến, của các vương quyền, và giáo quyền để người dân được tham gia vào sinh hoạt chính trị.  Giải trừ độc tài là quá trình dân sự hoá xã hội.  Đó là chỉ dấu của sự tiến bộ, của sáng và đẹp.  Và đó chính là ý nghĩa nguyên thủy của hai chữ “văn minh“.

V.
Độc tài là thể chế chính trị mà quyền lực tập trung vào một người hay một nhóm người.  Quyền lực nầy được duy trì bằng bạo lực, không bị giới hạn hay chi phối bởi luật pháp, hiến pháp hay định chế xã hội.
Chế độ cộng sản là thể chế xây dựng trên quan điểm độc tài.  Các ông tổ cộng sản chủ trương rất rõ ràng về nền độc tài vô sản (proletarian dictatoship), mà khi dịch ra tiếng Việt, các nhà Mác-xít Việt Nam gọi văn hoa là “chuyên chính vô sản”.
Trong tác phẩm Phê Phán Chương Trình Gotha, Mác viết “giữa xã hội tư bản và xã hội cộng sản có một giai đoạn cách mạng chuyển tiếp từ xã hội nầy qua xã hội kia.  Trong giai đoạn chuyển tiếp chính trị nầy nhà nước coi như không có, chỉ còn chế độ cách mạng độc tài của giai cấp vô sản.” — Critique of the Gotha Program (1875).

Chế độ cộng sản do đó là chế độ phải dựa vào bạo lực cách mạng hay sức mạnh của họng súng để cướp chính quyền và thiết lập chế độ độc tài để giành miếng ăn cho đảng viên, hay những người giác ngộ giai cấp vô sản.
Dựa vào sức mạnh để giành quyền lực, để giải quyết nhu yếu, chính là sự thể hiện thú tính của động vật hoang dã trong sinh hoạt xã hội bầy đoàn.  “Tiến lên xã hội chủ nghĩa” là thiết lập chế độ độc tài toàn trị để xây dựng một xã hội dựa trên bạo lực, là đưa xã hội loài người trở về với đời sống động vật thời kỳ còn man rợ, chưa được thuần hoá.   Đó là xã hội không có nhân nghĩa, không có nhân tính, càng ngày càng cách xa với đời sống người.  Do đó chế độ độc tài tự thân đã phủ định xã hội dân sự văn minh.

Nói tóm lại, văn minh thể hiện cái đẹp của đời sống người càng ngày càng thăng hoa. Nội dung của văn minh chính là đời sống người với đầy đủ nhân tính, nhân bản và nhân chủ.   Một xã hộicàng văn minh là xã hội càng tiến gần đến những giá trị của con người và càng xa rời đời sống dã man của động vật.  Đó là xã hội đã tháo gỡ được chế độ độc tài, đã được dân sự hoá, và đã hình thành được xã hội dân sự và chế độ dân chủ.

VI.
Nhiều người cho rằng chủ nghĩa Mác không còn giá trị trên thực tế tại Việt Nam vì những người cộng sản Việt Nam đã trở thành những nhà tư bản đỏ và xã hội Việt Nam đã bị tư bản hoá.  Đặt lại giá trị của chủ nghĩa Mác Lê là việc làm không cần thiết.
Nhưng trên thực tế những người cộng sản Việt Nam vẫn còn bám víu lấy chủ nghĩa Mác Lê để làm “ánh sáng” nhằm xây dựng xã hội.  Vấn đề tham nhũng, cướp đất của dân, cướp tài sản của các cơ sở tôn giáo, hay mafia hoá chính quyền không phải là hiện tượng mà là bản chất của chế độ độc tài chưa được dân sự hoá, của một xã hội sống gần với những bản năng loài cầm thú chưa được thấy ánh sáng của văn minh.

Quan trọng hơn là chủ nghĩa Mác Lê đã được hiến pháp hoá và thể hiện vào đời sống xã hội Việt Nam bằng một thể chế độc tài đảng trị. Cho nên đặt lại những giá trị căn bản của chủ nghĩa Mác trogn mối tưong quan với ý niệm công bằng dân chủ và văn minh là một trong những điều kiện cần để phá vỡ những bế tắc của Việt Nam hiện nay.

Vì dân chủ và công bằng là hiệu suất của xã hội dân sự, của văn minh, và vì chủ nghĩa Mác với chủ trương độc tài vô sản đã phủ định văn minh, do đó, đảng cộng sản không có khả năng đem lại công bằng dân chủ và văn minh cho loài người nói chung và cho người dân Việt Nam nói riêng.
Do đó, khẩu hiệu “xây dựng đất nước công bằng dân chủ văn minh”  trong bối cảnh một chế độ độc tài toàn trị không những là một khẩu hiệu hoàn toàn vô nghĩa mà còn đi ngược lại với những logic “duy vật” của chính chủ nghĩa Mác.

Nguyễn Xuân Phước
(Mùa Xuân Nhâm Thìn 2012)
Chia sẻ bài viết này :


Đăng nhận xét

 
Copyright © 2014. Nhà Báo Nguyễn An Dân - All Rights Reserved
Proudly powered by Blogger